Chiều cao của trẻ được quyết định bởi nhiều nhân tố, dù ban sơ trẻ có thể không cao nhưng nếu biết cách đổi thay chế độ ăn uống và tập dượt, chiều cao sau này sẽ được cải thiện đáng kể.
Danh Mục
1. Chiều cao của bố mẹ
Khi nói đến việc tăng chiều cao thì yếu tố di truyền của bác mẹ ảnh hưởng khoảng 70%, để trực giác hơn, bạn có thể sử dụng công thức này để tính:
Chiều cao của con gái = (chiều cao của bố + chiều cao của mẹ – 15)/2 ± 5 (đơn vị: cm).
Chiều cao của con trai = (chiều cao của bố + chiều cao của mẹ + 15)/2 ± 5 (đơn vị: cm).
thí dụ: Nếu bố cao 173cm và mẹ cao 160cm, chiều cao di truyền của con trai là (173+160+15)/2±5=174±5, tức thị chiều cao trưởng thành của con trai nằm trong phạm vi di truyền là 169cm đến 179cm.
Còn với con gái là (173+160-15)/2±5=159±5, tức là chiều cao di truyền nằm trong khoảng từ 154cm đến 164cm.
Như vậy, chiều cao thừa hưởng từ cha mẹ rút ra từ công thức là một khuôn khổ chứ không phải là giá trị nhất mực. Điều này cũng giải thích vì sao anh chị em sinh ra cùng bác mẹ lại có chiều cao khác nhau.
2. Hoàn cảnh ra đời
Hoàn cảnh khi một em bé chào đời tương đương với vạch xuất hành. Một em bé đủ tháng khỏe mạnh nặng khoảng 3,2kg và dài khoảng 50cm khi chào đời.
Trong y khoa, có một kiểu em bé gọi là “nhỏ bé so với tuổi thai”. Đối với các bé này, cân nặng hoặc chiều cao khi sinh của bé thấp hơn đáng kể so với giá trị tham chiếu thông thường của cùng một thai kỳ.
Nếu bác sĩ không đề cập đến “nhỏ so với tuổi thai” trong hồ sơ xuất viện, con bạn không cần lo âu về điều này.
Đối với trẻ nhỏ so với tuổi thai, tốc độ tăng trưởng của trẻ phải được theo dõi chặt đẹp sau khi sinh. Nếu trẻ bắt kịp các bạn cùng trang lứa trong vòng 3 năm sau khi sinh, chúng đã vượt qua được cấp độ này.
Ngược lại, nếu trẻ không bắt kịp các bạn cùng trang lứa, cần can thiệp kịp thời. Nếu không, chiều cao trưởng thành có thể sẽ vào khoảng 150cm đối với bé gái và khoảng 160cm đối với bé trai, lúc này nguyên tố di truyền sẽ không còn đóng vai trò 70%.
3. Tình trạng sức khỏe
Có một số căn bệnh ảnh hưởng tới chiều cao của trẻ như trẻ tiếp thụ kém các chất dinh dưỡng, trẻ mắc các bệnh về đường tiêu hóa, trẻ tiêu thụ quá mức một số thực phẩm gây hại… Điều này có thể khiến trẻ bị duy dinh dưỡng, thấp còi, bị bệnh nội tiết… Lúc này, phải điều trị tình trạng bệnh tật trước mới tính đến chiều cao.
4. Tốc độ tăng trưởng hàng năm
Sau khi trẻ chào đời, bố mẹ cần theo dõi tốc độ tăng trưởng của con mình thẳng tắp.
Dưới 3 tuổi, hồ hết trẻ sẽ phải khám sức khỏe định kỳ, nếu phát hiện trẻ chậm phát triển về chiều cao và cân nặng thì bác sĩ sẽ có những phương hướng điều trị kịp thời.
Sau 3 tuổi và trước tuổi dậy thì, tốc độ tăng trưởng hàng năm của trẻ là 5-7cm, <5cm và >7cm đều là bất thường, cần được can thiệp y tế.
5. Tuổi dậy thì
Tuổi dậy thì là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chiều cao. Vậy những dấu hiệu nào cho thấy trẻ đang bước vào tuổi dậy thì, chiều cao tăng trưởng nhanh?
Ngực của bé gái bắt đầu to lên và dịch hoàn của bé trai bắt đầu to ra. Nếu bé gái dậy thì trước 8 tuổi và bé trai dậy thì trước 9 tuổi được coi là dậy thì sớm, có nguy cơ gây ngăn trở đến chiều cao.
bởi thế, nếu sự tăng trưởng và phát triển của trẻ không được theo dõi trực tính, hãy đưa bé gái đến bệnh viện để đánh giá trước và sau sinh nhật 8 tuổi, 9 tuổi đối với bé trai.
6. Trạng thái của đầu xương
Không gian biểu mô là chỉ số trực tiếp nhất phản ánh quá trình tăng trưởng của trẻ. Chỉ số phản ảnh lượng không gian còn lại ở đầu xương là tuổi xương mà mọi người đều rất quen thuộc. Để biết được điều này, bác mẹ cần đưa con tới bệnh viện làm thẩm tra.
Lý tưởng nhất là tuổi sinh lý của trẻ = tuổi xương (nó cũng có thể chênh lệch 1 tuổi) = chiều cao tương ứng.
Nếu chiều cao của trẻ khác so với tuổi sinh học, bác sĩ sẽ thẩm tra phim tuổi xương. Nếu chiều cao và tuổi xương khớp nhau thì trẻ phát triển thông thường. Khi có sự dị biệt lớn giữa chiều cao và tuổi xương, cần phải tìm hiểu căn do.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tuổi xương chỉ có thể phán đoán chiều cao ngày nay của trẻ có đủ chuẩn không, nó không thể dự đoán được trẻ sau này cao bao nhiêu.